September 4, 2019

Ngày 20/6/2019, Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh đã tổ chức Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế đến lãnh đạo các phòng, ban đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân quận; lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể phường; cán bộ, công chức các phòng, ban đơn vị trực thuộc UBND quận/phường; báo cáo viên pháp luật; tuyên truyền viên pháp luật phường.

Tại Hội nghị, ông Phạm Bình An – Giám đốc Trung tâm Hội nhập quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh đã giới thiệu các nội dung cơ bản của những hiệp định thương mại quan trọng mà Việt Nam đã tham gia như: Hiệp định CPTPP, Hiệp định thương mại tự do Việt nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA) và một số vấn đề về lao động – công đoàn trong FTA thế hệ mới… Qua đó, bồi dưỡng, cập nhật chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến hội nhập quốc tế cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trên địa bàn; phát huy tính chủ động, tích cực của các cấp, ngành, địa phương trong hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần bảo đảm phát triển bền vững, hiệu quả, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội tại địa phương./.

Tháng Mười 14, 2019

Ngày 14/6/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Đặc xá năm 2018 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2019.

Nghị định này quy định chi tiết về thực hiện Quyết định về đặc xá, điều kiện, hồ sơ đề nghị đặc xá, thực hiện Quyết định đặc xá đối với người nước ngoài, trình tự, thủ tục lập hồ sơ, danh sách người đủ điều kiện được đề nghị đặc xá và thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá.

1. Đối tượng áp dụng:

- Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù (sau đây gọi chung là người bị kết án phạt tù).

- Cơ quan, tổ chức, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; người nước ngoài cư trú ở Việt Nam, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có liên quan đến hoạt động đặc xá.

2. Các điều kiện của người được đề nghị đặc xá (Điều 4)

- Người bị kết án phạt tù có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá là người đã chấp hành nghiêm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, tích cực học tập, lao động, cải tạo và các quý đã đủ thời gian xếp loại trong quá trình chấp hành án phạt tù được xếp loại khá hoặc tốt.

- Người bị kết án phạt tù đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá là người thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác theo bản án, quyết định của Tòa án;

+ Có quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thm quyền;

+ Có văn bản đề nghị của người được thi hành án hoặc đại diện hp pháp của người được thi hành án về việc không phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác theo bản án, quyết định của Tòa án đối với tài sản không thuộc sở hữu nhà nước.

- Người bị kết án phạt tù đã thi hành được một phần nghĩa vụ tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại là trường hợp người đó và gia đình không còn tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án và không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng.

- Người bị kết án phạt tù đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại điểm a khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là người thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Đã có hành động giúp trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phát hiện, truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm;

+ Cứu được tính mạng người khác hoặc tài sản lớn (có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên) của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn;

+ Có những phát minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc khác được trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện xác nhận.

Người đã có quyết định thi hành án phạt tù lập công lớn trong thời gian chờ đưa đến trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để chấp hành án phạt tù cũng được coi là lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù.

- Người bị kết án phạt tù đang mắc bệnh hiểm nghèo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là người mắc một trong các bệnh: Ung thư giai đoạn cuối; liệt; lao nặng kháng thuốc; xơ gan cổ trướng; suy tim độ III trở lên; suy thận độ IV trở lên; bệnh HIV giai đoạn lâm sàng IV đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc bệnh khác mà được Hội đồng giám định y khoa hoặc bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên kết luận bằng văn bản là không tự phục vụ bản thân, nguy cơ tử vong cao.

- Người bị kết án phạt tù đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân quy định tại điểm c khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là người đang phải nằm điều trị tại bệnh xá, bệnh viện liên tục từ 03 tháng trở lên hoặc không liên tục nhưng phải nằm điều trị tại bệnh viện từ ba lần trở lên, mỗi lần từ 01 tháng trở lên, không tự phục vụ bản thân, có kết luận bằng văn bản của Hội đồng giám định y khoa hoặc bệnh viện cấp tnh, cấp quân khu trở lên.

- Người bị kết án phạt tù có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình quy định tại điểm e khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là trường hợp gia đình của người bị kết án phạt tù đang lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn do tai nạn, ốm đau, thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác dẫn đến không còn tài sản gì đáng kể, không có thu nhập hoặc thu nhập dưới mức chuẩn hộ nghèo hoặc có bố đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con ốm nặng kéo dài, không có người chăm sóc mà người đó là lao động duy nhất trong gia đình, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú xác nhận là đúng.

3. Ngoài ra, Nghị định số 52/2019/NĐ-CP còn quy định về thành phần hồ sơ đề nghị đặc xá; trình tự, thủ tục lập hồ sơ, danh sách người đủ điều kiện được đề nghị đặc xá; quy trình thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá (Điều 5, 7, 8)./.

Tháng Mười Một 21, 2019

Ngày 20/10/2019 Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Giáo dục và Đào tạo và Phòng Tư pháp Quận 5 phối hợp tổ chức Hội thi học sinh Quận 5 với pháp luật, cùng với 5 đội thi từ 5 trường TTCS như Mạch Kiếm Hùng, Ba Đình, Kim Đồng, Thực hành Sài Gòn và Văn Lang tại, số 129 Phan Văn Trị phường 2, quận 5 (Trường trung học cơ sở Ba Đình).

Hội thi được tổ chức bằng hình thức sân khấu hóa đa dạng như thuyết trình, biễu diễn thời trang, tiểu phẩm sân khấu và ca múa nhạc qua đó các đội cũng đã trả lời các câu hỏi pháp luật của Ban giám khảo hội thi liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của các em học sinh, qua đó cũng đã thể hiện được lối sống đẹp, những mối quan tâm mà học sinh muốn thể hiện quan điểm, phương thức điều chỉnh cho cuộc sống xung quanh tốt đẹp hơn. Hội thi cũng đã truyền tải được các nội dung liên quan đến Luật Bảo vệ môi trường, Luật Trẻ em, Luật Thanh niên và Luật An toàn thực phẩm. Qua đó cũng giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học cơ sở các trường, góp phần nâng cao ý thức pháp luật, định hướng hành vi, hình thành thói quen, ứng xử tuân thủ pháp luật của học sinh phổ thông trên địa bàn Quận 5./.

Tháng Sáu 25, 2019

Ngày 28/5/2019, Phòng Tư pháp phối hợp với Công an, Hội Liên hiệp phụ nữ và Quận đoàn 5 tổ chức Hội nghị phổ biến, giáo dục pháp luật cho người cai nghiện ma túy tại gia đình, tại cộng đồng; người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng; người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương, đang chấp hành hình phạt tù cải tạo không giam giữ, quản chế, được hoãn chấp hành án hình phạt tù, đang bị phạt tù được hưởng án treo, mới ra tù tái hòa nhập cộng đồng; thanh niên chậm tiến và phụ nữ hồi gia trên địa bàn quận. Tham dự Hội nghị có hơn 187 đại biểu, trong đó có 57 người là đối tượng đặc thù.

Tại Hội nghị, Thượng tá Nguyễn Quốc Hùng – Phó trưởng công an Quận đã phổ biến những nội dung cơ bản của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ Luật Hình sự năm 2015 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật, Phòng chống ma túy và các văn bản có liên quan.

Qua đó, trang bị cho các đại biểu tham dự những thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết, tạo niềm tin đối với tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật; xây dựng ý thức, lối sống tự giác chấp hành pháp luật và bảo đảm quyền được học tập, thông tin pháp luật của công dân./.

Tháng Tám 8, 2019

Nhằm tăng cường phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, ngăn ngừa hành vi tái phạm, ngày 08/7/2019, Công an Quận 11 phối hợp với Phòng Tư pháp tổ chức phổ biến pháp luật cho các đối tượng đang chấp hành hình phạt tù trên địa bàn quận.

Báo cáo viên của buổi tuyên truyền là Đại tá Phạm Quốc Trung - Phó Đội trưởng CSTHAHS và HTTP Công An quận, tuyên truyền các nội dung như: Luật Phòng, chống ma túy; các quy định pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS; các quy định của Bộ luật hình sự về tội xâm phạm sở hữu và tội phạm về ma túy, trộm cắp tài sản. cướp giật tài sản…. Qua đó, giúp cho các đối tượng đang chấp hành hình phạt tù trên địa bàn quận nhận thức được những hành vi, vi phạm liên quan đến chính bản thân người phạm tội, đồng thời quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về giúp người phạm tội tái hòa nhập với cộng đồng./.

Tháng Mười 14, 2019

Ngày 27/08/2019, tại Hội trường Ủy ban nhân dân phường 2 quận Phú Nhuận, Phòng Tư pháp phối hợp với Hội Luật gia quận tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phổ biến Bộ luật hình sự năm 2015 với sự tham dự của 120 đại biểu đại diện 4 phường trọng điểm (phường 2, phường 5, phường 7, phường 9); cảnh sát khu vực, ban điều hành Khu phố; công chức tư pháp – hộ tịch và người bị phạt tù đang hưởng án treo trên địa bàn phường.

  Tại hội nghị, Luật sư Dương Quang Thọ đã phổ biến nội dung cơ bản của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đặc biệt là những điểm mới về tội phạm và hình phạt liên quan đến việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian tới.

  Qua Hội nghị, góp phần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người dân, đặc biệt là đối tượng đặc thù và địa bàn trọng điểm; vận động, thuyết phục người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, phối hợp với cơ quan nhà nước trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm; có biện pháp hỗ trợ người bị phạt tù được hưởng án treo tái hòa nhập cộng đồng, không phạm tội mới trong thời gian chấp hành án; qua đó, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ./.

Tháng Mười Một 12, 2019

Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.

Quyết định đặc xá là văn bản của Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân.

Thời điểm đặc xá

1. Chủ tịch nước xem xét, quyết định về đặc xá nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước.

2. Chủ tịch nước xem xét, quyết định đặc xá trong trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đối nội, đối ngoại của Nhà nước mà không phụ thuộc vào thời điểm quy định tại khoản 1 Điều này.

Chính sách của Nhà nước trong đặc xá

Nhà nước động viên, khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo để được hưởng đặc xá; tạo điều kiện thuận lợi cho người được đặc xá hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa tái phạm tội, vi phạm pháp luật.

Quyền và nghĩa vụ của người được đề nghị đặc xá

1. Được phổ biến chính sách, pháp luật về đặc xá; thông báo Quyết định về đặc xá, văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về điều kiện của người được đề nghị đặc xá và thông tin khác về đặc xá liên quan đến người được đề nghị đặc xá.

2. Liên hệ với thân nhân để thu thập giấy tờ, tài liệu cần thiết cho việc hoàn thiện hồ sơ đề nghị đặc xá.

3. Đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cấp, xác nhận giấy tờ, tài liệu cần thiết cho việc hoàn thiện hồ sơ đề nghị đặc xá.

4. Cung cấp giấy tờ, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền đề nghị đặc xá; khai báo đầy đủ, trung thực thông tin về cá nhân liên quan đến việc đề nghị đặc xá.

5. Khiếu nại, tố cáo

Điều kiện của người được đề nghị đặc xá

1. Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

b) Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù.

Người bị kết án về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; tội phá hoại chính sách đoàn kết; tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ luật Hình sự do cố ý hoặc người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần hai thời gian đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

c) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí;

d) Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá;

đ) Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù. Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này;

e) Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự;

2. Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự trong thời gian chấp hành án phạt tù trước khi có quyết định tạm đình chỉ;

b) Đã có thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại điểm b khoản 1;

c) Các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 1;

d) Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.

3. Người có đủ các điều kiện quy định tại các điểm a, c, d, đ, e và g khoản 1, các điểm a, c và d khoản 2 được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan có thẩm quyền khác;

b) Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; người được tặng thưởng danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người được tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Lao

động”; người được tặng thưởng một trong các loại Huân chương, Huy chương Kháng chiến; cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng liệt sĩ khi còn nhỏ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”;

c) Người đang mắc bệnh hiểm nghèo, người đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân;

d) Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp quy định tại khoản 4;

đ) Người từ đủ 70 tuổi trở lên;

e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình;

g) Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ;

h) Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự;

i) Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.

4. Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm g khoản 1 hoặc người dưới 18 tuổi đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm g khoản 1, điểm a và điểm d khoản 2 được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1.

Quyền và nghĩa vụ của người được đặc xá

1. Người được đặc xá có quyền sau đây:

a) Được cấp Giấy chứng nhận đặc xá;

b) Được chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan giúp đỡ để hòa nhập với gia đình và cộng đồng, tạo điều kiện về việc làm, ổn định cuộc sống;

c) Được hưởng các quyền khác như người đã chấp hành xong án phạt tù theo quy định của pháp luật.

2. Người được đặc xá có nghĩa vụ sau đây:

a) Xuất trình Giấy chứng nhận đặc xá với Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc tổ chức, đơn vị

 

quân đội nơi người đó về cư trú hoặc làm việc;

b) Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết;

c) Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Người được đặc xá trong trường hợp đặc biệt

Trong trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại của Nhà nước, Chủ tịch nước quyết định đặc xá cho người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người đang được hoãn chấp hành án phạt tù, người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người đang chấp hành án phạt tù chung thân mà không phụ thuộc vào các điều kiện quy định tại Điều 11 và Điều 12 của Luật Đặc xá.

Tháng Mười Hai 24, 2019

Sáng ngày 29/11/2019, tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, Hội đồng Phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật huyện đã phối hợp Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phổ biến Luật Trọng tài thương mại và các văn bản liên quan cho 55 người là đại diện các công ty, doanh nghiệp trú đóng trên địa bàn huyện, cán bộ các phòng, ban huyện.

Tại Hội nghị, ông Vũ Trọng Khang – Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài thương mại đã phổ biến nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của Luật Trọng tài thương mại cũng như các quy định cơ bản của Luật Trọng tài thương mại; đồng thời, đã giải đáp một số vướng mắc trong việc tranh chấp thương mại của các công ty, doanh nghiệp trú đóng trên địa bàn huyện./.           

Tháng Sáu 3, 2019

Ngày 16/5/2019, tại Hội trường Trung tâm bồi dưỡng chính trị Quận 11, Phòng Tư pháp phối hợp với Công an quận tổ chức Hội nghị phổ biến pháp luật về phòng, chống tra tấn với sự tham gia của 321 đại biểu là báo cáo viên pháp luật quận, tuyên truyền viên pháp luật 16 phường và các cán bộ, chiến sỹ lực lượng Công an nhân dân trên địa bàn Quận.

Tại Hội nghị, Đại úy Võ Thị Thu Lan – Phó Đội trưởng Đội 10 – Phòng Tham mưu Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã phổ biến các quy định pháp luật về quyền con người, quyền công dân, phòng, chống tra tấn được quy định tại các văn bản: Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR 1966) của Liên hiệp quốc năm 1966; Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT 1984) của Liên hợp quốc năm 1984 và các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên; Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017); Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Qua đó, giúp nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật về chống tra tấn của cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân./.

Tháng Năm 6, 2019

Ngày 11/4/2019, Ủy ban nhân dân quận 6 tổ chức Hội nghị tuyên truyền Luật Trợ giúp pháp lý và lồng ghép trợ giúp pháp lý lưu động với hơn 150 đại biểu là người Khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số (người Chăm, người Hoa) và người dân trên địa bàn Quận tham dự.

Tại Hội nghị, Ông Huỳnh Tấn Đạt – Phó Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý Thành phố và các cộng tác viên của Trung tâm đã giải đáp thắc mắc, tư vấn pháp luật cho người dân, chủ yếu liên quan đến các lĩnh vực: hôn nhân, thừa kế, dân sự… Qua đó, giúp các đại biểu tham dự cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật, các chủ trương, chính sách, quy định mới liên quan mật thiết đến cuộc sống của người dân./.

Tháng Mười 14, 2019

Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020. Một số quy định cụ thể của Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia:

1. Giải thích từ ngữ

- Rượu là đồ uống có cồn thực phẩm, được sản xuất từ quá trình lên men từ một hoặc hỗn hợp của các loại nguyên liệu chủ yếu gồm tinh bột của ngũ cốc, dịch đường của cây, hoa, củ, quả hoặc là đồ uống được pha chế từ cồn thực phẩm.

- Bia là đồ uống có cồn thực phẩm, được sản xuất từ quá trình lên men từ hỗn hợp của các loại nguyên liệu chủ yếu gồm mạch nha (malt), đại mạch, nấm men bia, hoa bia (hoa houblon), nước.

- Tác hại của rượu, bia là ảnh hưởng, tác động có hại của rượu, bia đối với sức khỏe con người, gia đình, cộng đồng, an toàn giao thông, trật tự, an toàn xã hội, kinh tế và các vấn đề xã hội khác.

- Nghiện rượu, bia là tình trạng lệ thuộc vào rượu, bia với biểu hiện đặc trưng như thường xuyên thèm uống, lượng uống có thể tăng theo thời gian, không thể tự kiểm soát lượng uống hay ngừng uống.

2. Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong phòng, chống tác hại của rượu, bia

- Được sống trong môi trường không chịu ảnh hưởng bởi tác hại của rượu, bia.

- Được cung cấp thông tin phù hợp, chính xác, khách quan, khoa học, đầy đủ về rượu, bia, nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng và tác hại của rượu, bia.

- Phản ánh, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia; tố cáo việc cơ quan, người có thẩm quyền không xử lý hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia.

- Tuân thủ quy định của pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia.

3. Các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống tác hại của rượu, bia

- Xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia.

- Người chưa đủ 18 tuổi uống rượu, bia.

- Bán, cung cấp, khuyến mại rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi.

- Sử dụng lao động là người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc sản xuất, mua bán rượu, bia.

- Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, tổ chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân, học sinh, sinh viên uống rượu, bia ngay trước, trong giờ làm việc, học tập và nghỉ giữa giờ làm việc, học tập.

- Điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.

- Quảng cáo rượu có độ cồn từ 15 độ trở lên.

- Cung cấp thông tin không chính xác, sai sự thật về ảnh hưởng của rượu, bia đối với sức khỏe.

- Khuyến mại trong hoạt động kinh doanh rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên; sử dụng rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức.

- Sử dụng nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến không được phép dùng trong thực phẩm; nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm không bảo đảm chất lượng và không rõ nguồn gốc, xuất xứ để sản xuất, pha chế rượu, bia.

- Kinh doanh rượu không có giấy phép hoặc không đăng ký; bán rượu, bia bằng máy bán hàng tự động.

- Kinh doanh, tàng trữ, vận chuyển rượu, bia giả, nhập lậu, không bảo đảm chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, nhập lậu rượu, bia.

- Các hành vi bị nghiêm cấm khác liên quan đến rượu, bia do luật định.

4. Địa điểm không uống rượu, bia

- Cơ sở y tế.

- Cơ sở giáo dục trong thời gian giảng dạy, học tập, làm việc.

- Cơ sở, khu vực chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành cho người chưa đủ 18 tuổi.

- Cơ sở cai nghiện, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ phạm nhân và cơ sở giam giữ khác.

- Cơ sở bảo trợ xã hội.

- Nơi làm việc của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập trong thời gian làm việc, trừ địa điểm được phép kinh doanh rượu, bia.

- Các địa điểm công cộng theo quy định của Chính phủ.

5. Địa điểm không bán rượu, bia

- Cơ sở y tế.

- Cơ sở giáo dục.

- Cơ sở, khu vực chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành cho người chưa đủ 18 tuổi.

- Cơ sở cai nghiện, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ phạm nhân và cơ sở giam giữ khác.

- Cơ sở bảo trợ xã hội.

- Nơi làm việc của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập, trừ địa điểm được phép kinh doanh rượu, bia.

6. Phòng ngừa tai nạn giao thông liên quan đến sử dụng rượu, bia

- Người điều khiển phương tiện giao thông không uống rượu, bia trước và trong khi tham gia giao thông.

- Người đứng đầu cơ sở kinh doanh vận tải, chủ phương tiện giao thông vận tải có trách nhiệm chủ động thực hiện biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn người điều khiển phương tiện vận tải uống rượu, bia ngay trước và trong khi tham gia giao thông.

- Cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm toa nồng độ cồn trong máu, hơi thở của người điều khiển phương tiện giao thông đang tham gia giao thông hoặc gây ra tai nạn giao thông.

- Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm xây dựng nội dung và tổ chức việc đào tạo về phòng, chống tác hại của rượu, bia trong chương trình đào tạo cấp bằng, chứng chỉ, giấy phép điều khiển phương tiện giao thông thuộc phạm vi quản lý./.

Tháng Mười 14, 2019

Kể từ ngày 15/10/2019, người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đưng bộ phải giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn theo quy định Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, cụ thể:

Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT quy định người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn trong các trường hợp sau:

1. Có báo hiệu cảnh báo nguy him hoặc có chưng ngại vật trên đường;

2. Chuyn hướng xe chạy hoặc tầm nhìn bị hạn chế;

3. Qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức; nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đưng sắt; đường vòng; đường có đa hình quanh co, đèo dốc; đoạn đường có mặt đường hẹp, không êm thuận;

4. Qua cầu, cống hẹp; đi qua đập tràn, đường ngầm, hm chui; khi lên gần đỉnh dc, khi xung dc;

5. Qua khu vực có trường học, bệnh viện, bến xe, công trình công cộng tập trung nhiu người; khu vực đông dân cư, nhà máy, công stập trung bên đường; khu vực đang thi công trên đường bộ; hiện trường xy ra tai nạn giao thông;

6. Khi có người đi bộ, xe lăn của người khuyết tt qua đường;

7. Có súc vật đi trên đường hoặc chăn thả sát đường;

8. Tránh xe chạy ngược chiều hoặc khi cho xe chạy sau vượt; khi có tín hiệu xin đường, tín hiệu khn cp của xe đi phía trước;

9. Đến gần bến xe buýt, điểm dừng đỗ xe có khách đang lên, xuống xe;

10. Gặp xe ưu tiên đang thực hiện nhiệm vụ; gặp xe siêu trường, xe siêu trọng, xe ch hàng nguy him; gặp đoàn người đi bộ;

11. Trời mưa; có sương mù, khói, bụi; mặt đường trơn trượt, ly lội, có nhiều đất đá, vật liệu rơi vãi;

12. Khi điều khin phương tiện đi qua khu vc trạm kiểm soát ti trọng xe, trạm cảnh sát giao thông, trạm giao dịch thanh toán đối với các phương tiện sử dụng đường bộ./.

Tháng Mười Một 21, 2019

Sáng ngày 02/11/2019, tại Hội trường Nhà Thiếu nhi Quận 4, Quận Đoàn 4 và Phòng Tư pháp Quận 4 đã phối hợp tổ chức Diễn đàn Thanh niên với Pháp luật và Hội thi biểu diễn tiểu phẩm tuyên truyền "Phòng chống tệ nạn xã hội và ma túy trong thanh thiếu niên" hưởng ứng đợt hoạt động "Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (9/11) năm 2019 trên địa bàn Quận 4.

Đến dự có đồng chí Nguyễn Thái Bình - Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Quận ủy, đồng chí Hoàng Thu Nam - Phó Bí thư Quận Đoàn, đồng chí Lương Nguyễn Trọng Tiến - Phó Trưởng Phòng Tư pháp Quận 4.

Tại diễn đàn Thanh niên với Pháp luật, đồng chí Hoàng Thanh Thảo - Chuyên viên Phòng tuyên truyền Chi cục phòng chống tội phạm Thành phố đã chia sẻ những thông tin bổ ích về các loại ma túy tổng hợp phổ biến và các tác hại của ma túy ảnh hưởng đến bản thân, gia đình và xã hội cho hơn 150 đoàn viên, thanh niên tham dự chương trình hiểu rõ và nâng cao ý thức phòng tránh. Ngoài ra, trong chương trình đã diễn ra Hội thi biểu diễn tiểu phẩm tuyên truyền "Phòng chống tệ nạn xã hội và ma túy trong thanh thiếu niên" với 8 tiết mục tham gia dự thi. Kết quả đơn vị Đoàn Trung tâm GDNN-GDTX Quận 4 đạt giải Nhất, Đoàn Phường 2-3-4 đạt giải Nhì, giải Ba thuộc về Đoàn Phường 5-13-14, các đơn vị Đoàn Phường 1-6-8 và Đoàn Trường THPT Nguyễn Hữu Thọ đồng giải Khuyến khích.

Thông qua các hoạt động nhằm tăng cường công tác tuyên truyền, góp phần nâng cao nhận thức trong giới trẻ về các tệ nạn xã hội, đặc biệt là hiểm họa từ ma túy./.

Tháng Tám 8, 2019

Ngày 14 tháng 6 năm 2019, Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục huyện Củ Chi tổ chức Hội nghị phổ biến các quy định pháp luật về kinh doanh rượu và nhãn hàng hóa. Tham dự Hội nghị có 184 đại biểu đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể huyện; các Phòng, ban chuyên môn thuộc huyện; Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn và tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh buôn bán rượu trên địa bàn huyện Củ Chi.

Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Ngọc Lan - Phó Trưởng phòng Kinh tế, báo cáo viên pháp luật huyện đã phổ biến những quy định pháp luật về kinh doanh rượu và nhãn hàng hóa tại Nghị định số 105/2017 /NĐ-CP ngày 14/9/2017của Chính phủ về kinh doanh rượu và Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa.

Qua đó, giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, hội viên và các tổ chức, cá nhân sản xuất và kinh doanh buôn bán rượu trên địa bàn nắm vững và chấp hành nghiêm quy định pháp luật về kinh doanh rượu và nhãn hàng hóa, ngăn ngừa, hạn chế hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý./.

Tháng Tư 4, 2019

Ngày 07/3/2019, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng chính trị Quận 11, Ủy ban nhân dân Quận 11 đã tổ chức Hội nghị tuyên truyền Nghị định 122/2018/NĐ-CP ngày 17/9/2018 của Chính phủ về quy định xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” với sự tham gia của hơn 200 đại biểu đại diện Phòng Văn hóa – Thông tin quận; thành viên Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” quận và 16 phường trên địa bàn quận.

Tại Hội nghị, báo cáo viên Nguyễn Tiến Đạt – Phó Trưởng phòng Xây dựng nếp sống văn hóa gia đình, Sở Văn hóa và Thể thao – TP. HCM đã phổ biến các nội dung của Nghị định 122/2018/NĐ-CP ngày 17/9/2018 của Chính phủ về quy định xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”; Công văn số 111/HD-SVHTT-XDNSVHGĐ ngày 30/01/2019 của Sở Văn hóa và Thể thao hướng dẫn về thực hiện Quy trình xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Khu phố văn hóa”, “Ấp văn hóa” và giới thiệu một số mô hình tiêu biểu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Sự ra đời của Nghị định 122/2018/NĐ-CP là bước cụ thể hóa các Nghị quyết của Trung ương, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XII về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước./.

September 4, 2019

Thực hiện Kế hoạch số 139/KH-UBND ngày 28/6/2019 của Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh về kiểm tra phổ biến giáo dục pháp luật đối với các phòng, ban, đơn vị quận và Ủy ban nhân dân phường năm 2019,

Từ ngày 16/7/2019 đến ngày 23/7/2019, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật quận Bình Thạnh đã thành lập 03 tổ kiểm tra tiến hành kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại 15 đơn vị là phòng, ban, đơn vị trực thuộc quận.

Qua kiểm tra cho thấy các đơn vị được kiểm tra đã triển khai phổ biến các văn bản pháp luật đến cán bộ, công chức và người lao động tại đơn vị như: Luật An ninh mạng; Luật Tố cáo; Luật Quốc phòng; Luật Phòng chống tham nhũng; Luật Đặc xá…và các văn bản luật quan trọng gắn với nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị bằng nhiều hình thức như hội nghị, hội thi, biểu diễn tiểu phẩm, tọa đàm… qua đó, giúp đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động nắm bắt kịp thời quy định pháp luật mới và tuyên truyền sâu rộng đến Nhân dân.

Hoạt động kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được quan tâm, thực hiện định kỳ hàng năm, giúp đánh giá chính xác, khách quan tình hình triển khai thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật tại cơ quan, đơn vị được kiểm tra; trao đổi kinh nghiệm, phát hiện những biện pháp, cách làm hay trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, từ đó, nhân rộng điển hình trên địa bàn; kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong công tác, phổ biến giáo dục pháp luật ở các cơ quan, đơn vị, đề xuất các giải pháp tháo gỡ, điều chỉnh nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian tới./.

Tháng Mười 14, 2019

Thực hiện Kế hoạch số 4184/KH-UBND-NCPC ngày 19/7/2019 của Ủy ban nhân dân Thành phố về tổ chức “Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – 9/11” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019,

Ủy ban nhân dân quận Tân Phú đã tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – 9/11 trên địa bàn quận Tân Phú, cụ thể:

- Tổ chức chương trình phổ biến pháp luật với chủ đề “Nói không với xâm hại trẻ em” cho hơn 879 lượt giáo viên, học sinh tham dự vào ngày 09/9/2019 tại Trường trung học cơ sở Thoại Ngọc Hầu; chương trình có sự tham dự của bà Nguyễn Thị Kim Vui, Trưởng Ban Dân vận Quận ủy Tân Phú, đồng thời là báo cáo viên pháp luật của chương trình.

- Tổ chức chương trình phổ biến pháp luật với chủ đề “An toàn giao thông cho nụ cười trẻ em” cho hơn 811 lượt giáo viên, học sinh Trường tiểu học Phan Chu Trinh tham dự vào ngày 10/9/2019; tại chương trình, Công ty TNHHKD Tân Long Vân đã trao tặng 900 mũ bảo hiểm cho giáo viên, học sinh, đại biểu tham dự./.

Tháng Mười Một 21, 2019

Ngày 12/11/2019, Ủy ban nhân dân Quận 12 đã tổ chức Hội nghị triển khai Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính Nhà nước với sự tham dự của gần 100 đại biểu đại diện lãnh đạo và cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên; các phòng ban chuyên môn, các cơ quan đơn vị thuộc quận và, công chức Ủy ban nhân dân 11 phường.

Tại Hội nghi, Ông Nguyễn Văn Khanh, Trưởng phòng báo chí - Sở Thông tin Truyền thông Thành phố đã phổ biến những nội dung cơ bản của Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017, đồng thời hướng dẫn các quy trình, thủ tục khi tiếp các cơ quan báo chí đến tác nghiệp tại các cơ quan và địa bàn dân cư.

Qua đó, quán triệt trong cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan và quy định cụ thể về người thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Ủy ban nhân dân quận; người được ủy quyền thực hiện phát ngôn nhân danh cơ quan hành chính Nhà nước để phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp./.

Tháng Sáu 25, 2019

Ngày 24/5/2019, Phòng Tư pháp phối hợp với Phòng Kinh tế, UBND Phường 8 quận Tân Bình tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phân biệt hàng thật, hàng giả và quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tham dự Hội nghị có 105 đại biểu đại diện các cơ quan, ban ngành quận, Ủy ban nhân dân phường cùng đại diện Ban quản lý các chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện lợi, hộ kinh doanh, thương nhân trên địa bàn quận.

Ông Võ Hùng Sơn Trưởng phòng Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ, báo cáo viên pháp luật Hội nghị đã phổ biến những nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động thương mại, sở hữu trí tuệ và xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cùng những tình huống thực tiễn. Qua đó, giúp đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công chức và người dân trên địa bàn quận nắm vững chủ trương, chính sách của Nhà nước và thực hiện đúng các quy định của pháp luật; phòng ngừa, hạn chế hành vi vi phạm./.

 

Tháng Sáu 25, 2019

Ngày 24/5/2019, Phòng Tư pháp phối hợp với Phòng Kinh tế, UBND Phường 8 quận Tân Bình tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phân biệt hàng thật, hàng giả và quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tham dự Hội nghị có 105 đại biểu đại diện các cơ quan, ban ngành quận, Ủy ban nhân dân phường cùng đại diện Ban quản lý các chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện lợi, hộ kinh doanh, thương nhân trên địa bàn quận.

Ông Võ Hùng Sơn Trưởng phòng Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ, báo cáo viên pháp luật Hội nghị đã phổ biến những nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động thương mại, sở hữu trí tuệ và xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cùng những tình huống thực tiễn. Qua đó, giúp đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công chức và người dân trên địa bàn quận nắm vững chủ trương, chính sách của Nhà nước và thực hiện đúng các quy định của pháp luật; phòng ngừa, hạn chế hành vi vi phạm./.

 

Tháng Mười 14, 2019

Ngày 26/8/ 2019, Đoàn kiểm tra của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Thành phố do đồng chí Nguyễn Văn Vũ, Phó Giám đốc Sở Tư pháp làm Trưởng đoàn đã tổ chức kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Nhà Bè.

Tại buổi kiểm tra, Đoàn kiểm tra đã nghe đ/c Trần Thị Mạnh báo tóm tắt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2018 và 06 tháng đầu năm 2019 của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Nhà Bè. Sau đó, Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra trực tiếp và đặt câu hỏi liên quan đến các nội dung: việc thực hiện tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; việc ban hành văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; việc củng cố, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; tình hình xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật; kết quả triển khai các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nội dung, hình thức tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật; kinh phí công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; việc đổi mới, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật...

Qua kiểm tra, đ/c Nguyễn Văn Vũ - Phó Giám đốc Sở Tư pháp Thành phố,  Trưởng Đoàn kiểm tra đã đánh giá khách quan những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế, từ đó, yêu cầu Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Huyện tiếp tục phát huy kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế và đề ra phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian tới./.

Tháng Mười Một 12, 2019

Nhằm tuyên truyền, phổ biến quán triệt sâu rộng những nội dung Công ước Liên hiệp quốc và pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn; giáo dục, bồi dưỡng nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Đồng thời, thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giúp người dân hiểu và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình.

Ngày 19/9/2019, tại Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện Nhà Bè, Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè tổ chức Hội nghị tuyên truyền nội dung Công ước Liên hiệp quốc và pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn với sự tham dựu của hơn 200 đại biểu đại diện lãnh đạo, cán bộ chiến sĩ Đội hình sự; Đội kinh tế; Đội ma túy; Đội hỗ trợ tư pháp – nhà tạm giữ; Đội điều tra tổng hợp; đại diện Ban chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ tổ phòng, chống tội phạm Công an xã, thị trấn; lực lượng sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp Quân sự Huyện, Ban chỉ huy quân sự xã, thị trấn; lãnh đạo Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn, đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật xã, thị trấn: công chức Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên xã, thị trấn, Ban Điều hành Khu phố, Ban nhân dân Ấp, Ban công tác Mặt trận Ấp, Khu phố, Tổ trưởng Tổ dân phố, Tổ nhân dân của xã, thị trấn.

Tại Hội nghị, bà Võ Thị Thu Lan – Đại úy – Đội phó đội tham mưu Công an thành phố đã giới thiệu một số nội dung cơ bản Công ước Liên hiệp quốc và pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn. Qua đó, góp phần giáo dục, bồi dưỡng nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang và đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên pháp luật của các xã, thị trấn và huyện./.

Tháng Mười Hai 24, 2019

Sáng ngày 29/11/2019, tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, Hội đồng Phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật huyện đã phối hợp Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phổ biến Luật Trọng tài thương mại và các văn bản liên quan cho 55 người là đại diện các công ty, doanh nghiệp trú đóng trên địa bàn huyện, cán bộ các phòng, ban huyện.

Tại Hội nghị, ông Vũ Trọng Khang – Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài thương mại đã phổ biến nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của Luật Trọng tài thương mại cũng như các quy định cơ bản của Luật Trọng tài thương mại; đồng thời, đã giải đáp một số vướng mắc trong việc tranh chấp thương mại của các công ty, doanh nghiệp trú đóng trên địa bàn huyện./.           

Tháng Sáu 3, 2019

Hòa giải, đối thoại luôn được coi là phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội, có thể giúp các bên giải quyết mâu thuẫn bằng chính ý chí của mình chứ không phải phán quyết của tòa án, thời gian giải quyết vụ việc ngắn, tiết kiệm kinh phí, hàn gắn những rạn nứt trong các quan hệ xã hội, xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân; qua việc hòa giải, đối thoại, người tiến hành hòa giải, đối thoại còn có thể giải thích, nâng cao nhận thức pháp luật cho các bên, giúp việc thi hành thuận lợi.

Nhận thức được tầm quan trọng của hòa giải, đối thoại trong giải quyết các vụ án dân sự, hành chính và nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả của công tác này trong bối cảnh hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức thí điểm thành lập Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án nhân dân hai cấp.

Sau đây xin giới thiệu một số quy định liên quan đến hoạt động thí điểm hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại tòa án nhân dân và việc tổ chức thực hiện tại TP.HCM.

Đính kèm tài liệu

 

Tháng Năm 6, 2019

Ngày 11/4/2019, tại hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị Quận 5  (TP.HCM), các ban ngành đoàn thể quận đã tổ chức Họp mặt kỷ niệm Ngày người khuyết tật Việt Nam 18/4/2019 và lồng ghép các hoạt động như: phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý lưu động, tư vấn pháp luật, tặng quà và trưng bày các sản phẩm thủ công do người khuyết tật thực hiện (tranh vẽ, móc khóa, hoa cài và các sản phẩm kết cườm, nút)…...

Tham dự buổi họp mặt có đại diện lãnh đạo Quận ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân, các ban ngành đoàn thể và cán bộ, công chức 15 phường cùng hơn 300 đại biểu là người khuyết tật. Cũng trong dịp này, Ban Tổ chức đã phát hành 800 tài liệu pháp luật do Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật Quận 5 biên soạn gửi đến các đại biểu tham dự.

Đây là hoạt động có ý nghĩa, góp phần phổ biến các quy định pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, Thành phố liên quan đến người khuyết tật; bên cạnh đó, các ban ngành, đoàn thể, cơ quan, tổ chức cùng chung tay chăm lo, hỗ trợ một phần để nâng cao chất lượng cuộc sống của người khuyết tật; tạo điều kiện để người khuyết tật được tiếp cận pháp luật, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và các dịch vụ chăm sóc khác./.

Tháng Mười 14, 2019

Nhằm triển khai “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình” và chuẩn bị cho việc tổng kết 5 năm thực hiện các Chiến lược, Chương trình, Đề án liên quan đến gia đình vào năm 2020,

Ngày 12/9/2019, Ủy ban nhân dân quận 7 đã tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ công tác gia đình và triển khai bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình năm 2019. Tham dự hội nghị có 230 đại biểu là cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, các hộ gia đình trên địa bàn quận.

Tại Hội nghị, bà Nguyễn Thị Thu Hiền  - Chuyên viên Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh đã phổ biến những nội dung chính của “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình” và nghiệp vụ công tác gia đình.

Hội nghị góp phần bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về công tác gia đình cho đội ngũ cán bộ, công chức phụ trách gia đình cấp quận, phường, khu phố; cung cấp, cập nhật kiến thức pháp luật mới liên quan đến lĩnh vực gia đình đến mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn, qua đó nâng cao nhận thức về xây dựng, giữ gìn hạnh phúc bền vững của mỗi gia đình hướng đến xây dựng Quận 7 văn minh - hiện đại - nghĩa tình; xây dựng gia đình bình đẳng, no ấm, tiến bộ, hạnh phúc./.

Tháng Mười 14, 2019

Sáng ngày 21/9/2019, tại Trường Trung học cơ sở Võ Trường Toản, Phòng Tư pháp Quận 1 phối hợp với Quận đoàn 1 tổ chức Vòng sơ kết hội thi "Cán bộ, công chức, viên chức trẻ, giỏi, thân thiện" năm 2019.

Tham dự vòng sơ kết hội thi có 12 đội thi với 60 thí sinh tham dự. Mỗi đội dự thi gồm 05 thí sinh là các đoàn viên trẻ đang công tác tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn Quận 1 và 01 đội khách mời đến từ Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi đội thi trải qua 02 phần thi như sau: phần thi thứ nhất, các thí sinh trả lời 30 câu hỏi trắc nghiệm và soạn thảo 01 văn bản hành chính trên máy tính; phần thi thứ hai, các thí trả lời 01 câu hỏi tự luận với chủ đề liên quan đến đạo đức công vụ, cải cách hành chính, thực hiện dân chủ, quy chế văn hóa công sở.

Căn cứ tổng điểm của các thành viên trong đội thi, Ban Tổ chức đã lựa chọn 05 đội thi có kết quả cao nhất tham gia Vòng chung kết hội thi gồm: đội thi phường Cầu Ông Lãnh, đội thi Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh, đội thi phường Tân Định, đội thi phường Cầu Kho và đội thi phường Bến Thành. Vòng chung kết hội thi sẽ được tổ chức vào sáng ngày 28/9/2019 (thứ Bảy) tại Hội trường Ủy ban nhân dân Quận 1./.

Tháng Mười Một 21, 2019

Thực hiện Kế hoạch 307/KH-HĐPH ngày 19/9/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 4 về tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải năm 2019; nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải, góp phần củng cố tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, hạn chế đơn thư khiếu kiện, phòng ngừa vi phạm pháp luật và các tệ nạn ngay từ cơ sở; tạo điều kiện giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Ngày 11/10/2019, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Quận 4 tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải năm 2019 cho 387 hòa giải viên trên địa bàn Quận và hơn 400 đại biểu đại diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân 15 phường, các công chức Tư pháp Hộ tịch, hòa giải viên trên địa bàn Quận 4. Báo cáo viên Hội nghị, bà Trần Việt Thái – Trưởng phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật – Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp những kiến thức bổ ích, thiết thực để các hòa giải mạnh dan, tự tin thực hiện công tác hòa giải tại địa phương.

 

Tháng Tám 8, 2019

Thực hiện Kế hoạch số 19/KH-HLG ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Hội Luật gia quận Bình Tân về việc triển khai thực hiện Quyết định số 3996/QĐ-UBND ngày 08 tháng 8 năm 2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố về ban hành Quy định “Hội Luật gia tham gia giám sát việc thi hành pháp luật, hòa giải cơ sở, tư vấn pháp luật, giải quyết khiếu nại, giải quyết tranh chấp pháp lý ngoài cơ chế nhà nước”,

Ngày 14 tháng 6 năm 2019, Hội Luật gia quân Bình Tân đã tổ chức Lễ ra mắt “Điểm Cà phê - Pháp luật” tại Quán Cà phê Suối Đá, Phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân. Tham dự Lễ ra mắt có đại diện các đoàn thể quận, các Ban, Đảng Quận ủy và các luật sư, luật gia thuộc Chi hội Luật gia cơ sở, Chi hội Luật gia cơ quan khối chính quyền quận. Mô hình “Điểm Cà phê - Pháp luật” là mô hình mới, được thí điểm thực hiện lần đầu tiên; là nơi thực hiện việc tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho người dân khi có nhu cầu; qua đó, góp phần xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý trên địa bàn Quận./.

Tháng Tư 4, 2019

Ngày 20 tháng 3 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2019/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Khoản 3 Điều 54 Bộ luật lao động về việc cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động, việc ký quỹ và danh mục công việc được thực hiện cho thuê lại lao động.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 05 tháng 5 năm 2019. Nghị định số 55/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ; Nghị định số 73/2014/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2014 của Chính phủ; Thông tư số 01/2014/TT-BLĐTBXH ngày 08 tháng 01 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Thông tư số 40/2014/TT-NHNN ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.

Một số điểm mới của Nghị định số 29/2019/NĐ-CP:

1. Thẩm quyền cấp, gia hạn, cấp lại, thu hồi giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động:

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính có thẩm quyền cấp, gia hạn, cấp lại, thu hồi giấy phép đối với doanh nghiệp.

2. Điều kiện cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động:

a) Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thực hiện hoạt động cho thuê lại lao động phải bảo đảm điều kiện là người quản lý doanh nghiệp; Không có án tích;  Đã làm việc trong lĩnh vực cho thuê lại lao động hoặc cung ứng lao động từ đủ 03 năm (36 tháng) trở lên trong thời hạn 05 năm liền kề trước khi đề nghị cấp giấy phép.

b) Doanh nghiệp đã thực hiện ký quỹ 2.000.000.000 đồng (hai tỷ Việt Nam đồng) tại ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.

3. Trường hợp không cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động:

a) Không bảo đảm điều kiện theo quy định tại Điều 5 Nghị định;

b) Đã sử dụng giấy phép giả để hoạt động cho thuê lại lao động;

c) Có người đại diện theo pháp luật đã từng là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động theo quy định tại các điểm d, đ, e và điểm g Khoản 1 Điều 12 Nghị định trong 05 năm liền kề trước khi đề nghị cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động;

d) Có người đại diện theo pháp luật đã từng là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sử dụng giấy phép giả.

4. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép

a) Văn bản đề nghị cấp giấy phép của doanh nghiệp theo Mu số 02 quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định.

b) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

c) Bản lý lịch tự thuật của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Mu số 04 quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định.

d) Phiếu lý lịch tư pháp số 1 theo quy định pháp luật về lý lịch tư pháp của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Trường hợp người đại diện theo pháp luật là người nước ngoài không thuộc đối tượng được cấp phiếu lý lịch tư pháp của Việt Nam thì phiếu lý lịch tư pháp s1 được thay thế bằng phiếu lý lịch tư pháp hoặc văn bản xác nhận người lao động nước ngoài không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự của nước ngoài cấp.

Các văn bản nêu trên được cấp trước ngày nộp hồ sơ không quá 06 tháng.

đ) Văn bản chứng minh thời gian đã làm việc của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 5 Nghị định là một trong các loại văn bản sau:

- Bản sao được chứng thực từ bản chính hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;

- Bản sao được chứng thực từ bản chính quyết định bổ nhiệm (đối với người làm việc theo chế độ bổ nhiệm) hoặc văn bản công nhận kết quả bầu (đi với người làm việc theo chế độ bâu cử) của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Trường hợp các văn bản nêu trên là văn bản bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch sang tiếng Việt.

- Giấy chứng nhận ký quỹ kinh doanh cho thuê lại lao động theo Mu số 05 quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định.

5. Thời hạn giải quyết cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động:

Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đảm bảo theo quy định, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm tra, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động đối với doanh nghiệp.

Trường hợp hồ sơ không đảm bảo theo quy định, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản yêu cầu doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ trình của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, cấp giấy phép đối với doanh nghiệp; trường hợp không cấp giấy phép thì có văn bản trả lời doanh nghiệp trong đó nêu rõ lý do không cấp giấy phép.

6. Thời hạn của giấy phép:

a) Thời hạn giấy phép tối đa là 60 tháng;

b) Giấy phép được gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn tối đa là 60 tháng;

c) Thời hạn giấy phép được cấp lại bằng thời hạn còn lại của giấy phép đã được cấp trước đó.

7. Điều kiện để được gia hạn giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động:

a) Bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 5 Nghị định;

b) Không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động cho thuê lại lao động từ 02 lần trở lên trong thời hạn của giấy phép liền kề trước đó;

c) Tuân thủ đầy đủ chế độ báo cáo quy định tại Nghị định;

d) Hồ sơ đề nghị gia hạn giấy phép được gửi đến Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trước thời điểm hết hiệu lực của giấy phép 60 ngày làm việc.

8. Trường hợp cấp lại giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động:

a) Thay đổi một trong các nội dung của giấy phép đã được cấp, gồm: tên doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính; người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;

b) Giấy phép bị mất hoặc bị cháy;

c) Giấy phép bị hư hỏng không còn đầy đủ thông tin trên giấy phép.

9. Trường hợp thu hồi giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động:

a) Chấm dứt hoạt động cho thuê lại lao động theo đề nghị của doanh nghiệp;

b) Doanh nghiệp giải thể hoặc bị Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản;

c) Không bảo đảm một trong các điều kiện quy đnh tại Điều 5 Nghị định;

d) Cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép;

đ) Cho thuê lại lao động để thực hiện công việc không thuộc danh mục công việc được thực hiện cho thuê lại lao động quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định;

e) Bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động cho thuê lại lao động từ 03 lần trong khoảng thời gian tối đa 36 tháng kể từ ngày bị xử phạt lần đầu tiên;

g) Doanh nghiệp có hành vi giả mạo các văn bản trong hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn, cấp lại giấy phép hoặc tẩy xóa, sửa chữa nội dung giấy phép đã được cấp hoặc sử dụng giấy phép giả;

h) Các trường hợp khác theo yêu cầu của Tòa án.

10. Các trường hợp không được cho thuê lại lao động

a) Doanh nghiệp cho thuê hoặc bên thuê lại lao động đang xảy ra tranh chấp lao động, đình công hoặc cho thuê lại lao động để thay thế người lao động đang trong thời gian thực hiện quyền đình công, giải quyết tranh chấp lao động.

b) Doanh nghiệp cho thuê không thỏa thuận cụ thể về trách nhiệm bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của người lao động thuê lại với bên thuê lại lao động.

c) Không có sự đồng ý của người lao động thuê lại.

d) Thay thế người lao động bị cho thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp hoặc vì lý do kinh tế.